Hiển thị các bài đăng có nhãn Máy ảnh số. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Máy ảnh số. Hiển thị tất cả bài đăng

ĐẠI CƯƠNG VỀ MÁY ẢNH

By // Không có nhận xét nào:

ĐẠI CƯƠNG VỀ MÁY ẢNH

Posted: Tháng Chín 26, 2010 in Uncategorized
  Máy ảnh ( tiếng Anh là Camera) là một thiết bị được sử dụng để chụp hình, thường là các bức ảnh, có thể là từng ảnh hoặc ảnh liên tục như với máy quay. Một máy ảnh chỉ chụp ảnh còn được gọi là photo máy ảnhđể phân biệt với video camera- máy quay. Từ máy ảnh (camera) bắt nguồn từ một từ gốc la tinh camera obscura có nghĩa là phòng tối, đây là cơ chế chụp ảnh ban đầu trong đó một phòng kín có chức năng như bên trong máy ảnh hiện nay, tuy nhiên không có cách nào để ghi lại hình ảnh và xem lại ảnh ngay sau khi chụp. Máy ảnh có thể làm việc ở phổ ánh sáng thấy được hoặc ở các vùng khác trong phổ bức xạ điện từ.
Mô tả 
Mỗi máy ảnh thường có một khoảng kín, khoảng này có một đầu là lỗ ống kính để cho ánh sáng đi vào và đầu kia là nơi ghi ảnh hay xem ảnh. Hầu hết các máy ảnh đều có ống kính gắn ở phía trước để gom ánh sáng lại và hội tụ thành ảnh trên bề mặt ghi ảnh. Đường kính của lỗ ống kính thường được kiểm soát bằng cơ chế diaphragm, nhưng cũng có những máy ảnh có lỗ ống kính không đổi.
Kích thước của lỗ ống kính và độ sáng của cảnh chụp quyết định lượng ánh sáng đi vào máy ảnh trong một khoảng thời gian, và màn trập điều khiển thời gian mà ánh sáng chiếu lên bề mặt ghi ảnh. Ví dụ, trong khung cảnh ít sáng, tốc độ màn trập nên chậm (tức là mở lâu hơn) để tấm phim nhận được thêm ánh sáng.
Do tính chất của ống kính máy ảnh, chỉ có những vật nằm trong một khoảng cách nào đó mới được thấy rõ. Quá trình điều chỉnh khoảng cách đó gọi là lấy nét trên máy ảnh. Có vài cách để lấy nét. Máy ảnh đơn giản nhất dùng cách lấy nét cố định với một lỗ ống kính nhỏ và ống kính góc rộng sao cho mọi thứ trong khoảng cách nào đó từ ống kính (thường là từ 3 mét tới vô cực) đều tương đối rõ nét. Cách này thường thấy ở loại máy ảnh dùng một lần rồi bỏ hoặc máy ảnh rẻ tiền. Một kiểu máy ảnh khác có một số khoảng rõ nét gọi là lấy nét bậc, các khoảng này được chỉ trên thân máy. Người dùng sẽ ước lượng khoảng cách của đối tượng rồi chọn bậc rõ nét tương ứng. Các bậc có thể được vẽ thành các biểu tượng như đầu và vai, hai người đứng, một cái cây, ngọn núi.
Máy ảnh đo khoảng cách qua lỗ ngắm cho phép đo khoảng cách tới đối tượng bằng một máy đo thị sai trên đầu máy. Máy ảnh SLR cho phép người chụp nhìn qua lỗ ngắm thấy ảnh sắp chụp và lấy nét trước khi chụp. Máy ảnh phản chiếu hai ống kính dùng một ống kính để chụp và một ống kính để lấy nét, hai ống kính này được liên kết với nhau để chỉnh cùng một lúc. Máy ảnh ngắm thẳng cho ảnh rọi lên một tấm kính mờ để ngắm, ngắm xong thì thay tấm kính mờ bằng tấm phim để chụp.
Máy ảnh thời nay thì có chức năng lấy nét tự động.
Hệ thống lấy nét tự động mới với 9 điểm cảm biến, tự động lấy nét chính xác và nhanh chóng, giúp ít bõ lỡ những pha chụp.
Máy ảnh thường thu ánh sáng trên tấm phim ảnh hoặc kính ảnh. Máy quay video và máy ảnh số dùng dụng cụ điện tử, thường là bộ cảm biến CCD hoặc CMOS để thu ánh sáng rồi ghi vào băng hoặc bộ nhớ, sau đó có thể xem lại hoặc xử lý ảnh.
Máy ảnh thu nhiều ảnh liên tiếp gọi là máy quay phim; máy chỉ thu từng ảnh gọi là máy chụp ảnh. Tuy nhiên ranh giới giữa hai loại này không còn rõ ràng nữa. Máy quay Video là loại máy quay phim nhưng thu hình bằng phương pháp điện tử (analog hoặc digital).
Máy quay phim ổ cứng hệ HD
Máy ảnh nổi chụp được hình giống như có ba chiều bằng cách chụp 2 hình khác nhau rồi ghép lại để tạo ảo giác về bề sâu của hình. Máy ảnh nổi có 2 ống kính cạnh nhau.
Một số máy ảnh phim có tính năng in ngày, để in ngày lên tấm phim.
Lịch sử máy ảnh
Bức ảnh đầu tiên được Joseoh Nicephore Niepce chụp vào năm 1826. Ông sử dụng một máy ảnh làm bằng một hộp gỗ trượt Charles and Vincent Chevalier sản xuất tại Paris. Niepce tạo ra bức ảnh dựa trên một khám phá của Johanm Heinrich Schultz (1724): một hỗn hợp bạc và phấn tối đi khi đưa ra ánh sáng. Tuy nhiên máy ảnh đã ra đời trước đó rất lâu. Trước khi phát minh ra ảnh người ta không có cách nào để lưu lại ảnh chụp từ các máy ảnh ngoại cách vẽ lại bằng tay.
Công nghệ của máy ảnh thưở sơ khai
Máy ảnh đầu tiên rất nhỏ, thậm chí có thể mang đi được khắp nơi được sản xuất bởi Johann Zahn vào năm 1885. Những máy ảnh đầu tiên tương tự như mô hình của Zahn, tuy nhiên chúng thường có gắn thêm một hộp gỗ di động để chỉnh tiêu điểm. Trước khi chụp, người ta lắp một tấm kính ảnh vào phía trước kính ngắm để ghi lại hình ảnh. Phép chụp hình của Jaqures Daguerre sử dụng một tấm đồng trong khi phép chụp hình của Willia, Fox Talbot ghi hình ảnh lên giấy.
Nguyên lý hộp tối của máy ảnh
Việc Frederick Scott Archer vào năm 1850 tạo ra công nghệ xử lý ảnh bằng tấm colodion ẩm đã làm giúp giảm thời gian phơi sáng đáng kể, tuy nhiên đòi hỏi người chụp ảnh phải chụp và rửa ảnh tạị chỗ, trong một phòng kín di động. Tuy hơi phức tạp nhưng phương pháp xử lý ảnh ambrotype và tintype được sử dụng rất rộng rãi trong suốt nữa sau của thế kỷ 19. Các máy ảnh sử dụng tấm kính ảnh ướt có thiết kế hơi khác đi so với ban đầu, một vài loại máy (như mẫu máy phức tạp Dubroni 1864) còn có thể thực hiện rửa ảnh bên trong máy ảnh thay vì trong một phòng tối. Một vài loại máy ảnh lắp nhiều ống kính. Trong thời gian này, bellows (phần xếp của máy ảnh cho phép ống kính di động) đuợc sử dụng rộng rãi.
Các nhãn hiệu máy ảnh

Sự khác biệt giữa máy ảnh số và máy ảnh cơ
 Máy ảnh cơ (chụp phim)
Máy ảnh số
Nếu như bạn đã quen chụp ảnh bằng máy cơ, bạn sẽ nhận thấy một vài điểm khác biệt khi sử dụng các chế độ chụp của máy ảnh số. Sau đây chúng tôi sẽ tóm tắt vài điểm khác biệt cơ bản
1. Nguồn điện
Máy ảnh cơ: sử dụng pin dùng một lần và không phải thay pin thường xuyên
Máy ảnh số: có thể sử dụng một hoặc nhiều loại pin- cả pin dùng một lần và pin sạc- đòi hỏi phải thường xuyên thay hoặc sạc pin
2. Ghi hình ảnh
Máy ảnh cơ: Sử dụng phim với nhiều kích thước khác nhau và độ nhạy sáng khác nhau. Máy ảnh số: Sử dụng một chip silicon nhạy sáng, có hai loại chip khác nhau: CCD hoặc CMOS. Các chip này quyết định kích thước ảnh và độ nhạy sáng của máy. Bằng cách chỉnh sửa các cài đặt trong máy bạn có thể chụp với các hiệu ứng khác nhau tương tự như chụp với các loại phim khác nhau.
3.Ngắm ảnh
Máy ảnh cơ: Sử dụng khe ngắm quang cho phép nhìn thấy 97 đến 100% khung cảnh.
Máy ảnh số: Sử dụng khe ngắm quang hoạc cùng với một màn hình LCD hiển thị 100% khung cảnh. Tuy nhiên rất khó nhìn màn LCD trong điều kiện ánh sáng nhiều, hơn nữa dùng màn LCD rất tốn pin. Rất nhiều camera thay thế khe ngắm quang bằng một khe ngắm điện tử EVF (thường được sử dụng trong máy quay phim). Tuy nhiên những người quen chụp với khe ngắm quang thường không thích chụp với EVF, vì thế hãy dùng thử trước khi mua.
4.Chụp ảnh
Máy ảnh cơ: chụp ảnh tức thời
Máy ảnh số: Có nhiều chế độ, phụ thuộc vào kích thước ảnh, định dạng ảnh, loại media, dung lượng còn lại của thẻ nhớ, loại cảm biến và tốc độ lấy nét.
5.Lưu ảnh
Máy ảnh cơ: Ảnh được lưu trực tiếp trên phim, chỉ sử dụng được mỗi phim một lần và mỗi cuộn có một số phim nhất định.
Máy ảnh số: Lưu ảnh thành các file dạng số trong bộ nhớ có thể sử dụng nhiều lần của thẻ nhớ hoặc đĩa, cả hai loại này đều có nhiều dung lượng khác nhau và có thể lưu rất nhiều ảnh một lúc.
6. Hiển thị ảnh
Máy ảnh cơ: Ngoài một vài loại máy ảnh dân dụng có hệ thống Advanced Photo System, máy ảnh cơ không thể hiển thị hình ảnh sau khi chụp. Khi phim đã rửa, bạn có thể quét ảnh hoặc phim để có thể xem trên màn hình máy tính hoặc ti vi.
Máy ảnh số: Bạn có thể xem lại ảnh trên màn hình tinh thể lỏng. Ngoài ra, rất nhiều camera cho phép kết nối với máy tính để xem với bạn bè. Từ đó bạn cũng có thể gửi ảnh của mình lên mạng để chia sẻ với bạn bè ở khắp nơi.
7. In ảnh
Máy ảnh cơ: Mang phim đến cho những người rửa ảnh để có thể in hoặc chuyển thành các file kĩ thuật số.
Máy ảnh số: Bạn có thể chuyển ảnh xuống máy tính để in ảnh bằng máy in ở nhà hoặc, nếu như bạn có một máy in tương thích, có thể kết nối trực tiếp máy ảnh với máy in đó. Một cách khác nữa là đặt in qua một dịch vụ trực tuyến hoặc mang đến các cửa hàng ảnh. 

BÀI HỌC TỪ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA MÁY ẢNH SỐ VÀ MÁY ẢNH PHIM

By // Không có nhận xét nào:

BÀI HỌC TỪ SỰ KHÁC BIỆT GIỮA MÁY ẢNH SỐ VÀ MÁY ẢNH PHIM


   Ngày nay, khi máy chụp ảnh số trở nên thông dụng, nhiều người dùng máy chụp ảnh thường nghĩ đến việc chuyển các máy chụp ảnh phim thành máy chụp ảnh số. Cứ vài tháng, trên thị trường lại xuất hiện thêm những chiếc thẻ nhớ với dung lượng ngày càng lớn và giá ngày càng rẻ. Bởi vậy, khi chụp ảnh bằng máy kĩ thuật số, chúng ta thường chẳng bao giờ phải lo lắng về việc hết bộ nhớ. Cũng là một điều tốt. Nhưng hậu quả của sự tiến bộ về mặt công nghệ ấy, là bạn được rèn luyện một thói quen chụp (và lưu) rất nhiều những bức ảnh kém chất lượng. Nó khiến bạn trở nên lười biếng hơn khi quan sát và cân nhắc chụp, cho bạn nếp nghĩ thiếu chuyên nghiệp rằng nếu bạn chụp thật nhiều ảnh, thế nào cũng sẽ có những kiểu đẹp.
Dân nghiệp dư chụp ảnh số
   Khi chụp ảnh bằng máy cơ, ngược lại, bạn sẽ bị giới hạn bởi số kiểu của cuộn film (thường là 24 hoặc 36 kiểu). Thêm vào đó, bạn sẽ muốn tránh việc phải chụp nhiều hơn 1 lần bấm máy cho 1 cảnh/đối tượng, bởi chi phí và sự tiêu tốn thời gian của quá tình rửa ảnh. Hệ quả tất yếu của những giới hạn đó, là bạn sẽ hình thành lại thói quen rất có ích, đó là cân nhắc kĩ hơn trước khi bấm máy.
    Tất nhiên, bạn hoàn toàn có thể quyết định chụp vài cuộn với một chiếc máy SLR kiểu cũ, nhưng theo kinh nghiệm của nhiều người, một máy Compact (ống kính liền thân) 35mm phơi sáng tự động là lựa chọn tốt hơn cả. Loại máy này thường chỉ yêu cầu người chụp chọn một trong khoảng 3 vùng focus (dựa trên khoảng cách giữa đối tượng chụp với máy ảnh) và ISO.
Máy Compact (ống kính liền thân) 35mm phơi sáng tự động
Sử dụng một máy phim tự động đơn giản sẽ bớt cho bạn thời gian quyết định trước mỗi lần bấm máy chụp những thông số phiền hà như cân bằng trắng, khẩu độ, tốc độ cửa trập, độ phơi sáng… Được giải phóng khỏi những lựa chọn mang nhiều tính kĩ thuật như vậy, bạn có thể hoàn toàn tập trung vào 2 việc duy nhất: chọn một đề tài hay và chọn góc chụp truyền cảm nhất!
   Bằng việc chỉ chụp một kiểu với mỗi cảnh, khi rửa ảnh, một điều đương nhiên là bạn sẽ thu về vài tấm khá dở, bên cạnh những kiểu tốt. Khi ngồi sắp xếp một số lượng khổng lồ những kiểu ảnh chụp được bằng máy số, bạn sẽ dễ dàng quên đi việc phải suy nghĩ và phân tích những sai sót từ các pô hỏng. Chỉ khi ngồi xem lại ảnh chụp bằng máy phim với số lượng hạn chế, một kiểu cho mỗi góc chụp, bạn mới buộc phải suy nghĩ nhiều hơn và lâu hơn về lý do những kiểu ảnh hỏng lại không được như bạn mong đợi, từ đó rút ra kinh nghiệm để cải thiện những bức ảnh sau này của mình. Chụp ảnh với máy số, chẳng bao lâu trong máy của bạn sẽ có hàng nghìn những bức ảnh kém chất lượng, loại ảnh bạn sẽ chẳng bao giờ in ra và treo trên tường nhà mình, nhưng cũng lại chẳng bao giờ biến mất khỏi ổ cứng đã quá tải của bạn. Lợi ích của việc sử dụng máy phim, là bạn sẽ chụp ít hơn (tất nhiên hy vọng sẽ chất lượng hơn), đồng nghĩa với việc bộ nhớ máy tính của bạn sẽ được rảnh rang hơn khá nhiều, để dành cho những công việc khác.
   Như chúng ta đã đề cập ở trên, chụp ảnh bằng máy phim sẽ giúp bạn “giữ được tỉ lệ chất lượng”, đảm bảo rằng sẽ có nhiều những bức ảnh đẹp ngay trên máy hơn. Và có lẽ, lợi ích quan trọng nhất của điều này, là việc bạn sẽ mất ít thời gian hơn cho quá trình làm hậu kì (post production) cho ảnh của mình. Khi chụp bằng máy cơ, bạn thường sẽ khó mà nhớ được mình đã chụp gì trên một cuộn phim. Không giống như với máy số, bạn có thể dễ dàng xem lại ngay các lần bấm máy với ảnh của mình trên màn hình review. Cái giá của nó, là bạn sẽ không bao giờ có được cảm giác đầy hào hứng và hồi hộp khi đem phim tới phòng rửa ảnh, cảm giác lần đầu tiên được nhìn bức ảnh sau khi rửa ra. Bên cạnh đó, có những bức ảnh được rửa theo phương pháp truyền thống trong phòng mình cũng là một cảm giác thú vị, một điều mà các nhiếp ảnh chuyên dùng máy số ít khi có được!
   Xin đọc các mẩu chuyện sau để xem có thể coi như những bài học rút ra được giữa sự khác biệt của máy ảnh số và máy ảnh phim mang lại những gì:
   Cẩn trọng như chụp máy phim
   Với người ở nông thôn, chiếc máy ảnh là một khối tài sản lớn, được sử dụng dè xẻn, chỉ cho công việc mưu sinh. Thậm chí, ở một số nơi vẫn còn giữ thói quen dùng máy ảnh số như máy chụp phim. Anh Nguyễn Kiên, thợ chụp ảnh ở Phù Ninh, Phú Thọ, cho biết, tuy chụp bằng máy ảnh số, nhưng mỗi lần chụp chỉ bấm máy tối đa khoảng 36 kiểu. Anh Kiên lý giải, khi mua máy, người bán có nói về số lần dùng với tuổi thọ của máy và thẻ nhớ, càng ít dùng thì càng dùng được lâu.
Thợ ảnh ở nông thôn
   Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn bắt nguồn từ thói quen chụp ảnh phim. Thời đó, mỗi nhà thường giao hẹn với thợ ảnh chụp đúng một cuộn phim. “Giờ vẫn vậy, dù dùng máy ảnh số nhưng đi chụp ảnh chủ nhà vẫn nhắc “chụp cho một cuộn”, anh Kiên vừa kể vừa cười.
   Hơn nữa, sau khi chụp xong, phó nháy ở nông thôn không ghi ra đĩa CD mà đem thẻ nhớ ra các trung tâm như thị xã, thị trấn để rửa rồi gửi lại cho khách. Vì vậy, việc chụp ảnh không làm xô bồ mà luôn có sự cân nhắc từ khi bấm máy, mỗi kiểu chụp thợ ảnh đều lựa cảnh, cẩn thận chỉnh sửa trang phục… để “bấm phát nào, chắc phát ấy”.
   Không cần biết Photoshop
   Đấy là chuyện đối của các thợ ảnh cá thể, đến với nghề qua con đường tự học, học mót từ bạn bè, đồng nghiệp và từ những người bán máy ảnh. Tại những địa phương có danh lam, thắng cảnh, là địa điểm du lịch, tham quan thì có khác, thợ ảnh được địa phương tổ chức đào tạo, dạy nghề hẳn hoi. Anh Đăng Tiến, 19 tuổi, ở Gia Viễn, Ninh Bình, cho biết, từ khi chùa Bái Đính mới khởi công, xã đã tổ chức các lớp học, mời thầy giáo từ trên huyện xuống dạy kiến thức cơ bản về nhiếp ảnh. “Sau mỗi khóa học, các học viên có thể tự tin chụp ảnh kiếm thêm thu nhập ngoài việc làm ruộng”, anh Tiến nói. Hiện, khu vực chùa Bái Đính, có khoảng 260 “tay máy” hành nghề, tất cả đều được đào tạo qua lớp học nhiếp ảnh do xã tổ chức.
Khu vực chùa Bái Đính, có khoảng 260 “tay máy” hành nghề.
Tuy nhiên, thời gian học chỉ kéo dài khoảng hai tuần nên các học viên mới nắm một số kiến thức cơ bản về việc sử dụng máy, điều chỉnh độ mở của ống kính, chọn chế độ chụp thích hợp và sử dụng máy in ảnh… Nếu như, dân chơi ảnh ở thành phố rất coi trọng Photoshop thì thợ ảnh ở đây không biết đến bất kỳ phần mềm chỉnh sửa ảnh cơ bản nào. Vì điều kiện tác nghiệp của họ không gắn bó nhiều với máy tính, ảnh chụp xong được sửa qua loa trên máy và đem in để trả khách càng sớm càng tốt. Do đó, 100% thợ ảnh ở đây chọn dùng máy ảnh Nikon, vì loại máy này cho phép họ có thể chỉnh sáng tối, cắt cúp ảnh trên máy. “Bọn em mà dùng Canon thì chỉ đặt sai thông số một chút là hỏng ăn ngay”, Đăng Tiến tâm sự.
   Đầu tư rẻ nhất có thể
   Những thợ ảnh ở chùa Bái Đính, hầu hết sử dụng Nikon D40 và còn nguời dùng Nikon D60 chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thêm nữa, gần như toàn bộ thợ ảnh dùng loại ống kính kit (có tiêu cự 18-55 mm). Tất cả chỉ đủ dùng vì mức đầu tư của mỗi thợ ảnh đều rất hạn hẹp. Đây là tình trạng chung của thợ ảnh ở nông thôn.
Thợ ảnh ở chùa Bái Đính
    Một thợ ảnh ở Thái Bình trò chuyện với nguời bán hàng, anh nói vui nhưng rất thật: “Nếu mua máy về mà để hỏng thì phải 6 năm nữa, anh em mình mới lại gặp nhau”. Biết hoàn cảnh của anh, nguời bán hàng đã tư vấn anh để lại sạc pin, vì có thể dùng chung với bạn bè, để lại vỏ hộp vì không cần thiết, và chọn cho anh một loại ống kính của Tamron vì ống kính này ít bị lỗi và hỏng hóc, để tránh việc đi lại bảo hành tốn kém.

ĐÔI NÉT VỀ MÁY ẢNH SỐ

By // Không có nhận xét nào:
Máy ảnh số (ngày nay, tại Việt Nam thường gọi là máy ảnh kĩ thuật số) là một máy điện tử dùng để thu và lưu giữ hình ảnh một cách tự động thay vì phải dùng phim ảnh giống như máy chụp ảnh thường. Những máy chụp ảnh số đời mới thường có nhiều chức năng, ví dụ như có thể ghi âm, quay phim. Ngày nay, máy chụp ảnh số bán chạy hơn máy chụp ảnh phim 35mm. Máy ảnh số hiện nay bao gồm từ loại có thể thu gọn vào trong điện thoại di động cho đến sử dụng trong các thiết bị chuyên nghiệp như kính viễn vọng không gian Hubble và các thiết bị trên tầu vũ trụ.
Một số loại máy ảnh số
Phân loại
Máy chụp ảnh số có thể chia ra các loại sau:
Máy quay phim
Máy quay phim là loại máy mà mục đích chính là để thu ảnh động.
  • Máy quay phim chuyên nghiệp là những máy dùng để làm chương trình truyền hình và phim. Chúng thường có nhiều bộ cảm biến ảnh (mỗi màu một bộ) để tăng độ phân giải và gam mầu. Máy quay phim chuyên nghiệp đời đầu thường không có sẵn phần VCR và microphone.
  • Máy quay phim kết hợp (camcorder) thường có sẵn microphone để ghi âm và một màn hình tinh thể lỏng nhỏ để xem trong khi ghi hình và phát lại.
  • Webcam là máy chụp ảnh số gắn vào máy tính dùng để hội đàm truyền hình hay các mục đích khác. Webcam có thể thu ảnh động, một số cái còn có luôn microphone và có thể zoom.
Ngoài ra, nhiều kiểu máy chụp ảnh số xem ngay có chế độ ghi ảnh động, ảnh được ghi liên tục ở một tốc độ đủ nhanh để xem như ảnh động.
Máy chụp ảnh số xem ngay
Một máy chụp ảnh số xem ngay là một máy chụp ảnh mà hiện ảnh ngay trên màn hình điện tử để ngắm trước khi chụp. Tất cả các máy chụp ảnh số có màn hình đều thuộc loại này, trừ một vài loại máy ảnh số SLR.
Ranh giới giữa máy chụp ảnh số xem ngay và máy camcorder không rõ rệt. Nhiều kiểu máy chụp ảnh số xem ngay có chế độ ghi ảnh động, và nhiều kiểu máy camcorder có thể chụp ảnh. Tuy nhiên, một cái máy chụp ảnh số xem ngay loại bình dân cũng chụp ảnh tốt hơn máy camcorder loại khá, và một cái máy chụp ảnh số xem ngay loại khá vẫn ghi hình kém hơn máy camcorder loại bình dân. Ngoài ra, máy camcorder đời mới cũng có thể ghi ảnh động vào flash memory và truyền đi qua USB hay FireWire như máy chụp ảnh số xem ngay. Máy chụp ảnh số xem ngay được chia hạng theo megapixel, là độ phân giải tối đa tính bằng triệu điểm. Việc truyền ảnh vào máy tính thường dùng USB  mass storage device class (máy chụp ảnh được xem như một ổ đĩa), hoặc dùng Picture Transfer Protocol. FireWire ngày càng trở nên phổ biến và có nhiều máy chụp ảnh số có FireWire. Tất cả các máy chụp ảnh số đều dùng bộ cảm biến CCD hoặc CMOS, đó là một chip chứa một lưới các phototransitor để nhận biết cường độ ánh sáng được hội tụ qua ống kính của máy chụp ảnh. bộ cảm biến CMOS dùng loại vật liệu khác và ít hao điện hơn CCD.
Máy chụp ảnh số gọn
Còn được gọi là digicam, chiếm phần lớn các máy chụp ảnh số hiện nay. Chúng rất dễ dùng, có khả năng thu ảnh động vừa phải. Chúng có khả năng zoom kém hơn máy chụp ảnh số loại khá (prosumer) và DSLR. Chúng có độ sâu của vùng chụp (depth of field) khá lớn, nhờ vậy những vật ở khoảng cách tương đối xa nhau cũng được chụp rõ nét, làm cho máy chụp ảnh loại này dễ dùng. Nhưng điều này cũng làm cho những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp không dùng nó, vì bức ảnh trông không nổi và có vẻ thiếu tự nhiên. Loại máy này thích hợp để chụp ảnh phong cảnh. Hình ảnh chụp bằng loại này được ghi theo một dạng duy nhất là JPEG.
Máy chụp ảnh lai
Máy chụp ảnh lai hay prosumer là một nhóm các máy chụp ảnh xem ngay hạng khá, nhìn bên ngoài giống máy chụp ảnh DSLR (nên còn được gọi là máy chụp ảnh số giống DSLR, DSLR-like), có một số tính năng cao cấp của DSLR nhưng cũng có những tính năng của máy chụp ảnh xem ngay. Máy chụp ảnh DSLR thường được coi là cao cấp hơn máy chụp ảnh lai. Nhưng một số máy DSLR mới ra sau năm 2003 làm cho sự phân biệt giữa DSLR và máy chụp ảnh lai bớt rõ rệt: một số DSLR có thể được xếp vào hạng bình dân, trong khi máy ảnh lai vẫn được xếp vào hạng khá.
Máy chụp ảnh lai thường có ống kính có độ zoom lớn. Người ta dễ lầm máy chụp ảnh lai với DSLR vì vẻ bề ngoài hơi giống nhau. Nhưng máy chụp ảnh lai thật sự không có gương phản chiếu bên trong, nên việc ngắm trước khi chụp phải qua màn ảnh tinh thể lỏng hoặc lỗ ngắm điện tử, và như vậy thì sẽ hơi chậm so với DSLR thật. Dù sao thì ảnh chụp được cũng có chất lượng và độ phân giải cao trong khi máy thì gọn nhẹ hơn máy DSLR. Hạng tốt nhất trong loại máy ảnh lai chụp ảnh tương đương với hạng vừa của máy DSLR. Ảnh chụp bằng loại máy này được ghi theo dạng JPEG hoặc RAW.
Máy chụp ảnh số SLR
Máy chụp ảnh số SLR giống máy chụp ảnh phim SLR ở chỗ có một hệ thống gương phản chiếu bên trong.
Máy chụp ảnh số chuyên nghiệp dạng rời
Loại này gồm có những máy rất chuyên nghiệp mà có thể được ráp lại từ từng bộ phận để thích hợp nhất với từng mục đích cụ thể. Hasselblad và Mamiya là những nhà sản xuất loại này. Chúng được chế ra để chụp phim cỡ vừa và lớn, chụp ra ảnh với độ nét cao hơn bình thường.
Máy ảnh loại này thường chỉ được dùng trong studio vì rất lớn và khó mang theo. Chúng có thể chuyển đổi giữa dùng phim và kỹ thuật số bằng cách thay phần thân sau. Máy loại này rất đắt (lên tới 40.000$) và người sử dụng thường ít có cơ hội đụng tới nó.
Việc chuyển máy chụp ảnh phim thành máy chụp ảnh số
Khi máy chụp ảnh số trở nên thông dụng, nhiều người dùng máy chụp ảnh thường nghĩ đến việc chuyển các máy chụp ảnh phim thành máy chụp ảnh số. Việc này có thể làm được tùy theo loại máy ảnh. Phần lớn máy chụp ảnh dùng phim 35mm thì không thể chuyển được vì quá mất công và tốn kém. Một trường hợp đặc biệt là một dụng cụ do Silicon Film chế ra trong khoảng các năm 1998-2001 gọi là EFS-1. Nó có thể được lắp vào máy chụp ảnh phim thay cho cuộn phim, và cho phép chụp 24 tấm ảnh có độ phân giải 1,3MP. Năm 2002, hãng này sản xuất EFS-10, cho phép chụp với độ phân giải 10MP.
Một vài hãng sản xuất máy chụp ảnh phim 35mm đã sản xuất phần thân máy digital cho máy phim của họ, ví dụ như Leica. Các hãng cũng làm phần thân digital cho máy chụp ảnh phim cỡ trung và cỡ lớn (hơn 35mm) với giá rất đắt, cỡ 10.000$ trở lên. Vì bộ cảm biến ảnh trong các thân máy digital này rất lớn nên ảnh chụp được có độ phân giải rất cao và file ảnh rất lớn, ví dụ đầu năm 2006 máy P45 của Phaseone chụp ảnh 39MP vào file TIFF 224,6MB.
Lịch sử
Những nghiên cứu đầu tiên
Ý tưởng số hoá ảnh bằng máy scanvà ý tưởng số hoá tín hiệu ảnh động xuất hiện trước ý tưởng chụp ảnh số.
Ảnh số được chụp đầu tiên vào tháng 12 năm 1975 bằng máy của hãng Eastman Kodak. Máy đó dùng bộ cảm biến CCD do Fairchild Semiconductor làm ra năm 1973. Máy này nặng 3,6Kg, chụp ảnh trắng đen có độ phân giải 10.000 pixelvà ghi vào băng từ. Chụp mỗi tấm ảnh mất 23 giây.
Máy chụp ảnh số đầu tiên trông giống máy chụp ảnh thường là máy Sony Mavica (Magnetic Video Camera) sản xuất năm 1981. Máy này dựa trên công nghệ truyền hình analog để chụp ảnh. Ảnh có độ phân giải tương đương màn hình TV.
Mãi tới năm 1984 Canon giới thiệu Canon RC-701, một máy chụp ảnh điện tử analog, trong Thế vận hội. Máy này không phổ biến được vì nhiều lý do: giá đắt (tới 20.000$), chất lượng hình kém hơn ảnh phim, và máy in không có sẵn.
Những người dùng đầu tiên là giới làm tin, giá đắt đối với họ không phải là vấn đề khi mà họ cảm thấy tiện lợi khi truyền ảnh qua đường điện thoại. Chất lượng thấp cũng không sao vì như vậy là đủ để in trên giấy báo.
Máy ảnh số thật sự
Máy ảnh số thật sự đầu tiên là Fuji DS-1P vào năm 1988, hình chụp được ghi vào thẻ nhớ 16MB (phải nuôi bộ nhớ này bằng pin). Máy ảnh số đầu tiên được bán rộng rãi là Kodak DSC-100 năm 1991. Nó có độ phân giải 1,3MP và giá là 13.000$.
Máy chụp ảnh số đầu tiên có màn hình tinh thể lỏng là Casio QV-10 năm 1995. Máy chụp ảnh số đầu tiên dùng Compart Flash là Kodak DC-25 năm 1996.
Máy chụp ảnh số loại bình dân đầu tiên đạt đến độ phân giản 1MP vào năm 1997. Máy chụp ảnh số đầu tiên có thể ghi ảnh động là Ricoh RDC-1 năm 1995.
Năm 1999, Nikon giới thiệu Nikon D1, máy chụp ảnh DSLR đầu tiên với độ phân giải 2,74MP, có giá dưới 6.000$ (giá chấp nhận được đối với nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp và giới chơi ảnh nhiều tiền). Máy này dùng ống kính theo chuẩn Nikon F-mount giống như các máy chụp ảnh phim.
Năm 2003, Canon cho ra đời Canon Digital Rebel, còn gọi là 300D, có độ phân giải 6MP và là chiếc DSLR đầu tiên có giá dưới 1.000$.
Độ phân giải ảnh
Độ phân giải của máy chụp ảnh số thường được quyết định bởi bộ cảm biến, đó là phần đổi ánh sáng thành những tín hiệu rời rạc. Bộ cảm biến gồm hàng triệu lỗ nhỏ. Những lỗ nhỏ này phản ứng với một màu ánh sáng tùy theo kính lọc màu của nó. Mỗi lỗ đó gọi là một pixel. Chúng được sắp xếp xen vào nhau sao cho ba chấm màu RGB (đỏ-lục-lam) ghép lại thành một chấm có đủ màu.
Một thuộc tính quan trọng của máy chụp ảnh số là số pixel của nó, tính theo hàng triệu gọi là megapixel. Nhưng số pixel không chưa đủ quyết định độ phân giải thật của ảnh. Còn phải xét đến kích thước của bộ cảm biến, chất lượng của ống kính, và cách sắp xếp các pixel. Nhiều máy chụp ảnh số gọn có số pixel rất lớn nhưng kích thước bộ cảm biến lại nhỏ nên kích thước của mỗi pixel quá nhỏ, nhỏ hơn khả năng ống kính có thể phân biệt được, như vậy thì độ nét của ảnh không thật sự bằng số pixel đó.
Quá nhiều pixel có khi còn làm giảm chất lượng của ảnh theo một cách khác. Do pixel quá nhỏ, nó nhận được quá ít ánh sáng nên tín hiệu nó sinh ra quá yếu dễ bị lẫn với nhiễu của mạch điện tử. Kết quả là bức ảnh không rõ, nhất là ở những vùng chuyển màu.
Khi công nghệ càng tiến bộ, giá thành càng giảm đi nhiều. Người ta tính số pixel trên mỗi đô-la như một trong các chỉ số của máy chụp ảnh số. Số pixel trên mỗi đô-la ngày càng tăng theo thời gian, phù hợp với Định luật Moore.
Các phương pháp thu ảnh
Từ thời của những máy chụp ảnh số đầu tiên tới nay, đã có ba phương pháp chính để thu ảnh, dựa trên các loại bộ cảm biến và lọc màu khác nhau.
Phương pháp thứ nhất gọi là chụp-một-lần. Bộ cảm biến được rọi sáng một lần. Máy kiểu này có một bộ cảm biến với bộ lọc mầu Bayer, hoặc là có ba bộ cảm biến (cho ba màu cơ bản đỏ-lục-lam) được rọi sáng cùng lúc bởi ba tia sáng tách ra bằng bộ tách sáng.
Phương pháp thứ hai gọi là chụp-nhiều-lần. Bộ cảm biến được rọi sáng ít nhất ba lần liên tiếp. Có vài cách dùng phương pháp này. Thông thường nhất là dùng một bộ cảm biến với ba kính lọc lần lượt được đưa ra trước bộ cảm biến để thu lấy từng màu. Một cách khác là dùng một bộ cảm biến với bộ lọc Bayer giống như trên nhưng dịch bộ cảm biến nhiều lần để mỗi pixel nhận sáng vài lần để trộn lại thành ảnh có độ phân giải gấp nhiều lần độ phân giải của bộ cảm biến. Cách khác nữa là kết hợp vừa thay kính lọc vừa dịch bộ cảm biến (không có bộ lọc màu Bayer).
Phương pháp thứ ba gọi là quét. Bộ cảm biến được kéo trên mặt phẳng hội tụ sáng giống như bộ cảm biến của máy scan để bàn. Bộ cảm biến có thể là một hàng hay ba hàng (ba màu). Trong một số trường hợp việc scan không phải do kéo bộ cảm biến mà do quay camera; máy chụp ảnh số quay có thể tạo ra ảnh có độ phân giải rất cao. Khi góc quay rộng thì chụp ra ảnh panorama.
Tuỳ theo đối tượng cần chụp mà người ta dùng phương pháp thu ảnh nào. Ví dụ để chụp vật di chuyển thì phải dùng phương pháp chụp-một-lần. Còn để chụp tĩnh vật với độ phân giải cao thì người ta dùng phương pháp chụp-nhiều-lần.
Gần đây, máy chụp ảnh theo phương pháp chụp-một-lần đã có nhiều cải tiến nên đây là loại phổ biến nhất trong các kiểu máy thương mại.
Lưới lọc màu, nội suy, chống răng cưa
Hầu hết các máy chụp ảnh số hạng bình dân đều dùng lưới lọc màu Bayer, kết hợp với bộ chống răng cưa, và dùng một giải thuật demosaic để nội suy từ ba điểm màu cơ bản thành các điểm có đủ màu.
Các máy chụp ảnh dùng phương pháp chụp-một-lần với ba bộ cảm biến hoặc dùng phương pháp chụp nhiều lần thì không cần phải chống răng cưa cũng như demosaic.
Firmware trong máy chụp ảnh số hoặc software xử lý ảnh RAW sẽ biến đổi dữ liệu thô từ bộ cảm biến thành ra ảnh màu đầy đủ. Một điểm ảnh màu đầy đủ phải có ba giá trị cho ba màu đỏ-lục-lam (hoặc ba màu cơ bản khác nếu dùng hệ màu khác). Một phần tử của bộ cảm biến không thể cùng lúc cho ra ba giá trị đó. Do đó cần có lưới lọc mầu để chọn một màu cho mỗi pixel.
Bộ lọc màu Bayer là một lưới có kích thước 2×2 pixel, được lặp lại liên tiếp theo hai hướng ngang và dọc. Trong lưới đó, có 2 đỉnh đối nhau cùng mang màu lục, 2 đỉnh còn lại màu đỏ và lam. Có nhiều điểm màu lục hơn màu đỏ và lam, để thích hợp với mắt người, vốn nhạy với độ sáng-tối hơn là độ màu và phân biệt sáng-tối dựa phần lớn vào màu lục. Đôi khi người ta để hai điểm lục trong lưới lọc màu đó có cường độ khác nhau; như vậy thì ảnh màu sẽ chính xác hơn, nhưng cần phải có một giải thuật nội suy phức tạp hơn.
Bố trí kính lọc màu Bayer trên các pixel của bộ cảm biến
Kết nối
Nhiều máy chụp ảnh số có thể nối với máy tính để truyền dữ liệu qua.
  • Những máy đời đầu thì dùng cổng nối tiếp. Bây giờ thì dùng USB (hầu hết máy chụp ảnh số đều được máy tính xem như một ổ đĩa USB, một số máy thì dùng USB-PTP). Một số máy thì có cổng FireWire.
  • Một số máy thì dùng kiểu vô tuyến như Blue Tooth, Wi-Fi.
Một cách khác cũng thường được thấy là dùng ổ đọc thẻ nhớ. Ổ đọc thẻ nhớ có thể đọc được nhiều loại thẻ. Dùng cách này giúp cho đỡ hao pin của máy chụp ảnh. Nhưng có hơi bất tiện là cứ phải tháo/gắn thẻ nhớ.
Nhiều máy đời mới theo chuẩn PictBridge, có thể gửi hình thẳng đến máy in, không cần qua máy tính.
Tích hợp
Nhiều máy điện tử có tích hợp luôn máy chụp ảnh số vào nó. Ví dụ như máy điện thoại di động, PDA. Mục đích chính của sự tích hợp này là sự tiện lợi nên những máy chụp ảnh tích hợp này chỉ cho ảnh nhỏ và kém nét.
Lưu ảnh
Có nhiều cách để lưu ảnh trong máy chụp ảnh số.
Ghi vào bộ nhớ flash liền trong máy 
Hay gặp ở máy chụp ảnh số rẻ tiền hoặc máy chụp ảnh tích hợp với máy khác.
Trong dòng máy Mavica cuối những năm 199x.
Video Floppy 
Những máy đầu tiên dùng một đĩa mềm cỡ 2″x2″
Đĩa cứng chuẩn PCMCIA
Những máy chuyên nghiệp đời đầu, bây giờ không còn nữa.
Đĩa CD hay DVD 
Đĩa CD cỡ 3,5″ chứa được 185MB. Cách này được Sony CD-100 dùng.
Máy chụp rồi in luôn chứ không lưu ảnh lại.
Thẻ nhớ
Thường gặp ở máy chụp ảnh chuyên nghiệp. Microdrive là một ổ đĩa nhỏ xíu trong hình dáng của thẻ CompactFlash. Có loại adapter để biến một thẻ SD thành thẻ CompactFlash.
Một loại thẻ nhớ của Sony.
Thẻ nhớ có vỏ bên ngoài nhỏ hơn CompactFlash. Đang dần dần thay thế CompactFlash. Thiết kế ban đầu có dung lượng tối đa là 2GB và dùng FAT16, sau này theo chuẩn SDHC là 4GB và dùng FAT32.
Vỏ ngoài nhỏ bằng nửa SD. Được dùng cho các máy điện thoại di động.
Vỏ ngoài nhỏ bằng một phần tư SD. Được dùng cho các máy điện thoại di động.
Được thiết kế bởi Fuji và Olympus trong năm 2002, vỏ ngoài nhỏ hơn SD.
Được thiết kế để cạnh tranh với COmpactFlash. Dung lượng giới hạn ở 128MB. Ngày nay không còn dùng nữa vì bị xD thay thế.
FP Memory
2-4MB flash memory, dùng trong các máy chụp ảnh Mustek/Relisys rẻ tiền.
 Các loại thẻ nhớ
Pin
Máy chụp ảnh cần nhiều năng lượng trong khi vỏ máy ngày càng nhỏ. Do đó cần có một loại pin có kích thước nhỏ nhưng lại có nhiều điện năng để máy dùng được lâu.
Có hai trường phái dùng pin sau đây.
Pin thông dụng
Là những loại pin chuẩn có sẵn như AAAAA, hay CR2. Pin CR2 là loại pin gốc lithium, không nạp lại được. Pin AA thông dụng hơn. Loại pin alkaline không có nhiều điện để máy dùng được lâu. Người ta thường dùng pin Nickel metal hydride, vừa tích nhiều điện vừa nạp lại được. Những máy chụp ảnh hạng khá và một số hạng bình dân thường dùng pin thông dụng.
Pin riêng
Phần lớn pin riêng là pin lithium ion, được nhà sản xuất máy thiết kế riêng. Pin lithium ion chỉ có thể nạp lại được chừng 500 lần, nhưng nó tích được nhiều điện trong một thể tích nhỏ. Những máy chụp ảnh hạng chuyên nghiệp và hạng bình dân hay dùng pin riêng.
           
Các loại pin cho máy ảnh số 
Dạng ghi file
Những dạng thông dụng là JPEG và TIFF.
Máy chuyên nghiệp hay DSLR thì có thể ghi dạng RAW. Ảnh RAW là ảnh đọc từ bộ cảm biến chưa được biến đổi gì hết. Mỗi hãng có một cách ghi ảnh RAW riêng.
Ảnh RAW phải được xử lý bằng software. Khi xử lý ảnh RAW, có thể đưa vào những thay đổi như độ cân bằng màu trắng, bù sáng, nhiệt độ màu… Từ ảnh RAW nhiếp ảnh gia có thể đưa những điều chỉnh vào mà không sợ mất chất lượng ảnh.
Ảnh động thì được ghi theo các dạng AVI, DV, MPEG, MOV, WMV, MP4.